Điều chắc chắn là cuốn tự truyện “Eigentlich bin ich ein super Typ” của Basler gây ra sự phấn khích. Giống như anh từng làm trong suốt cuộc đời mình. Một mẫu mực của “thiên tài cầu thả”. Có một nửa số người ghét anh, nửa còn lại thích anh. Nhưng từ sâu thẳm, Basler là một người, như tựa sách anh đặt “Thật ra, tôi là một chàng trai tuyệt vời”.
“Hầu hết thời gian tôi đóng vai chính”
Những cầu thủ nghiệp dư chơi ở giải đấu cấp quận và sống cuộc sống của họ, với bia, xúc xích, thuốc lá sau trận đấu. Không phải nịnh bợ làm vừa lòng người khác. Giống như Basler.
Nhưng Basler cũng khác họ, vì anh là cầu thủ chuyên nghiệp, và chơi bóng không chỉ là chuyện riêng tư của anh. Sự pha trộn giữa nghiệp dư và chuyên nghiệp của Basler khiến những người chủ gặp khó khăn với lối sống của anh.
“Bóng đá giống như rạp hát, và hầu hết thời gian tôi đóng vai chính”. Basler thích những HLV để anh làm như vậy. HLV Hitzfeld của Bayern không dám cấm anh hút thuốc. HLV yêu thích của anh là Rehhagel, người mà anh dành cả một chương trong cuốn sách, giải thích rằng “Trận đấu bắt đầu lúc 15h30 và kết thúc lúc 17h15 chiều, còn sau đó, cậu muốn làm gì thì làm”.
Câu chuyện của Basler bắt đầu ở thành phố Neustadt an der Weinstrasse, trong gia đình mẹ làm nhân viên bưu điện và cha là một thợ máy. 5 tuổi, Mario bắt đầu với vị trí thủ môn. Nhưng cái chân phải biết đá thẳng những quả phạt góc vào khung thành của anh sớm lọt vào mắt các nhà tuyển trạch.
Người cha là một tấm gương quan trọng của anh. Chỉ đến cuối câu chuyện, Basler mới tiết lộ rằng anh cắt đứt liên lạc với cả cha lẫn mẹ 2 năm trước khi cha qua đời. Sự nghiệp của Basler không phải là một sự lựa chọn được lên kế hoạch sẵn. 24 tuổi, anh mới đá trận đầu tiên ở Bundesliga. Sau mấy năm học việc tại Kaiserslautern, CLB không muốn ký hợp đồng chuyên nghiệp với anh, chàng trai đến từ Neustadt hét vào mặt họ: “Vậy thì các ông có thể hôn mông tôi”.
Rot Weiss Essen là một CLB chăm chỉ và không có nhiều thời gian cho những kỹ thuật gia cao cấp. Tiếp đó, Basler đến Hertha Berlin. Không khí Tây Berlin thật quyến rũ, sau mỗi trận đấu, trước tiên anh đến sòng bài và sau đó đến nhà thổ, "tất nhiên chỉ để thử rượu mạnh được cung cấp ở đó”. Cựu HLV ĐTQG Đông Đức Bernd Stange biến Basler thành VĐV chạy nước rút nhanh nhất trong đội nhờ chế độ tập luyện thể chất chăm chỉ. Tuy nhiên, Stange không thể thay đổi tính lười chạy của anh.
Trong mùa giải 1992/93, Super Mario biểu diễn ảo thuật trên sân rồi sau trận đấu bất ngờ thấy mình đứng tiểu trong bồn tiểu bên cạnh HLV Rehhagel của Werder Bremen. Họ trao đổi số điện thoại. Mùa tiếp theo, Basler đến Bremen, tại đó “thiên tài cẩu thả” phát triển thành một trong những tiền vệ hay nhất nước Đức. Mùa bóng 1994/95, Basler còn trở thành vua phá lưới Bundesliga, dù anh đá vị trí tiền vệ cánh phải, trong đó có 2 bàn ghi trực tiếp từ chấm phạt góc.
Không tương thích với ĐTQG
Năm 1994, Basler đến Mỹ dự World Cup. Các đồng đội gọi anh là “Ro-Mario”. Nhưng với anh thì đó là giải mà “bầu không khí hoàn toàn chết tiệt”. Các cầu thủ bị phân tâm bởi những cuộc chiến lẻ tẻ trong đội, giữa những cá tính như của Matthaus, Klinsmann, Effenberg. Bản thân Basler phải ngồi trên băng ghế dự bị và đóng vai kẻ bị xúc phạm.
Khi anh tắm nắng dưới trời Chicago thì vợ mang thai đứa con thứ hai của họ. Cô gọi cho anh để nói rằng nhịp tim của đứa bé không tốt, Basler quyết định bay về nhà ngay lập tức. Cô con gái của anh nhìn thấy ánh sáng ban ngày khi anh theo dõi ĐTQG qua truyền hình. Anh muốn trở lại Mỹ đá tiếp, nhưng Đức bị loại ở tứ kết.
ĐTQG và Basler không tương thích với nhau. Euro 1996, trong một trận đấu tập, anh đổ nhào xuống sân, la hét đau đớn. Mắt cá sưng tấy, Basler không thi đấu phút nào, chẳng có lý do gì để ở lại. Nhưng anh vẫn xoay xở ra thú vui cho mình khi ngồi buồn ở nước Anh, với rượu và thuốc lá. Các cầu thủ được phép quan hệ tình dục trong thời gian diễn ra giải đấu. ĐT Đức đầy thương tích năm đó vẫn lên ngôi vô địch.
Năm 1995, Juventus sẵn sàng trả 14 triệu D-Mark để có Basler, nhưng Giám đốc Lemke muốn có thêm nửa triệu nữa và thỏa thuận thất bại. 1 năm sau, người Bavaria hưởng lợi từ canh bạc, Basler từ Bremen tới Bayern. Ở CLB gọi là “FC Hollywood” này, Matthaus và Klinsmann không bao giờ hòa giải được với nhau, HLV người Italy Trapattoni ngán ngẩm “tôi quá mệt mỏi khi phải đi làm vú em cho các cầu thủ này”.
HLV Hitzfeld đến, ký hợp đồng mua Effenberg từ M’Gladbach, tạo thành “bộ ba địa ngục” Basler, Matthaus và Effenberg. Sự hoài nghi là không thể tránh khỏi, nhưng ít nhất trong một thời gian, cách quản lý con người của Hitzfeld cũng thành công.
Tờ Bild đăng một câu chuyện trên trang nhất vào ngày 1/4/1998, rằng Bayern thuê một thám tử tư để theo dõi Basler. Một số người cho rằng đó là một trò đùa 1/4, nhưng Bayern xác nhận điều đó, thậm chí họ khẳng định đó là nhân viên CLB chứ không phải thám tử. Uli Hoeness, Tổng giám đốc, nói: “Đôi khi những người trẻ tuổi cần được chăm sóc, tôi không coi đây là một biện pháp bất thường”.
“Tôi mang đến sự giải trí cho khán giả”
Đội bóng của Hitzfeld đi đến trận chung kết Champions League 1999, gặp MU. Basler ghi bàn từ cú sút phạt ngay phút thứ 6. Và sau đó, theo một cách khác thường, anh tham gia vào việc phòng ngự, chơi một trận rất đỉnh, cho đến khi được rút ra ở phút 87. Thảm họa xảy ra với người Đức khi MU lội ngược dòng thắng lại 2-1 ở những phút bù giờ.
Basler ngậm điếu thuốc một cách buồn bã trong nhà tắm. Và sau đó lấp đi nỗi buồn bằng rượu, leo lên chiếc bàn trong quán rượu nhảy một cách cuồng nhiệt. Anh học cách bù đắp cho sự thất vọng khi còn là một cậu bé.
Cha anh hứa cho 5 DM nếu ghi mỗi bàn thắng khi anh còn là một học sinh. Sau 40 bàn thắng, tổng cộng là 200 DM, người cha giải thích cho như vậy là quá nhiều, không cho nữa. Không cần động lực, năm đó, Basler vẫn ghi 76 bàn.
Về trận đấu ở sân Nou Camp, Basler không tự trách mình nhiều. Anh chỉ tự trách vì từ chối “hợp đồng trọn đời” mà Karl-Heinz Rummenigge đề nghị sau đó. Anh yêu cầu được trả lương ngang bằng với đội trưởng Effenberg. Yêu cầu bị từ chối. Bayern bắt đầu muốn loại bỏ anh. Giọt nước tràn ly diễn ra vào tháng 10/1999, anh và thủ môn dự bị Sven Scheuer tham gia vào một vụ ẩu đả ở nhà hàng.
Báo cáo lúc đó viết, Basler cố gắng giữ thăng bằng một chai rượu trên đầu khi đang ngồi trên một chiếc ghế chồng lên trên bàn. Sau đó, anh nổi giận khi một thực khách chụp ảnh mình. Còn trong cuốn sách, anh giải thích, một thực khách trêu chọc Scheuer và anh này sống đúng với cái tên của mình (Scheuer nghĩa là mắc cỡ), đánh người khách kia. Basler đứng ra bảo vệ người bạn, nhưng Hoeness không tin anh.
Basler luôn không ăn năn. “Tôi mang đến sự giải trí, và khán giả muốn được giải trí”. Mẫu người như vậy khó trở thành HLV thành công. Basler đã thử và thất bại. Anh bình luận trên truyền hình và tham gia vào các show truyền hình thực tế. Mở quán bar cũng là sở thích và kinh nghiệm của anh. Gia tài 15 triệu euro đủ để Basler tự chủ cuộc sống.
Với người vợ đầu, Basler có con trai Marcel và con gái Alisa, sinh vào thời điểm World Cup 1994. Năm 1995, anh gặp người vợ thứ hai Iris, họ kết hôn năm 1998 và có con trai Maurice. Năm 2009, họ ly hôn. Basler cặp với bạn gái Doris Bueld từ đó cho đến năm 2015 rồi chia tay. Rồi anh quen với Jessica Paszka, qua show truyền hình thực tế “Big Brother”.
Năm 2017, Basler trở lại với người vợ cũ Iris, để rồi 2 năm sau lại chia tay. Dường như cuộc sống chưa đủ phức tạp, Basler hiện quay về với người bạn gái Doris.
Bình Luận